Cũng như nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác ở vùng Đông Á, trong một thời gian dài hàng chục thế kỉ tiếng Hàn không có chữ viết. Mọi hình thức giao tiếp đều thực hiện bằng lời nói. Một ngôn ngữ mà chưa có chữ viết là thiếu đi một tiêu chí của xã hội văn minh. Và ngôn ngữ đó cũng không thể thực hiện đầy đủ các chức năng quan trọng và đa dạng của nó như chức năng công cụ của giao tiếp, tư duy, lưu trữ tàng trữ thông tin, chức năng thi pháp sáng tạo văn hoá thành văn. Thời bấy giờ Korea cũng như Việt Nam và Nhật Bản phải mượn chữ Hán, dùng tiếng Hán như ngôn ngữ chính thức của các nhà nước dân tộc. Vào giữa thế kỉ thứ 8 dưới triều Shila người Hàn mà đại diện là Solchong đã sáng tạo ra một loại chữ viết cho tiếng Hàn gọi là I du tương tự như chữ Nôm ở ta. Chữ I du cấu tạo theo phương thức tượng hình như chữ Hán và được đánh giá là “tầm thường, quê mùa” vì nó đã dùng chữ viết không khác gì chữ Hán và xa xỉ đối với chúng ta (tức đối với người Hàn, như lời phê phán của Choe Mallii). Chính vì vậy mà sự ra đời cả chữ viết Hangul và Huấn dân chính âm được đánh giá là một sự sáng tạo dân tộc độc đáo có ý nghĩa to lớn.
Bối cảnh ra đời của chữ viết Hangul là vào thế kỉ 15 thuộc đời vua thứ 4 triều đại hậu Choson, triều đại mà xã hội phong kiến Korea đạt đến đỉnh cao của sự phát triển (như triều Hậu Lê của ta cùng thời). Dưới triều đại này nhân dân Korea đã có nhiều thành tựu sáng tạo to lớn trong các ngành khoa học như: địa lí, lịch sử, thiên văn, âm nhạc, ngôn ngữ, pháp luật… Nhiều tác phẩm đã trở thành cổ điển do viện Danh nhân hay còn gọi viện Tập hiền tổ chức biên soạn, trước tác do vua Sejong (1418 – 1450) đứng đầu (giống như Lê Thánh Tông ở nước ta với Tao đàn nhị thập bát tú). Để có cơ sở khoa học và thực tiễn cho sự sáng tạo, nhà vua đã cho các nhóm học giả qua Trung Quốc và các vương quốc lân bang nghiên cứu, một số khác đi điều tra ở các địa phương. Sưu tập các con triện, phân tích nét vẽ trên các dấu hiệu cá nhân để vẽ thử, viết thử các dạng nét chữ viết, tìm cách tổ hợp, kết hợp nét chữ theo lối mà ngày nay ta gọi là modul hoá để tạo thành hệ thống chữ Hangul. Vua Sejong là người chủ trì trong cả quá trình này. Cuối cùng đến năm 1446 thì chính thức công bố Hangul cùng với Huấn dân chính âm, tạm hiểu như là âm chính xác để truyền thụ giáo huấn cho dân, giải thích, hướng dẫn cách thức, nguyên lí sáng tạo hệ thống chữ viết mới mà nhân dân cần thấu hiểu và dùng theo.
Phải nói rằng việc sáng tạo chữ viết Hangul và công bố Huấn dân chính âm là một việc làm có ý nghĩa khoa học độc đáo, ý nghĩa văn háo to lớn. Ý nghĩa khoa học nổi bật ở chỗ: Một là, vào thời bấy giờ việc tiếp xúc Đông Tây còn hạn chế; các nước Đông Á chịu ảnh hưởng nặng nề từ tiếng Hán, chữ Hán tượng hình mà nguyên tắc sáng tạo chữ Hangul lại làm theo lối ghi âm gần gũi với nguyên tắc sáng tạo chữ Latinh, chữ viết Xlavơ (Kirin Pêphôđi) của phương Tây. Hai là, cách thức tổ hợp nét chữ , nguyên tắc hợp tố được thể hiện rõ theo lối phái sinh (ít kết hợp lại thành nhiều, đơn thành phức) cộng với phương thức lắp ghép theo khối (modul hoá) để thành âm tiết, âm phức. Ba là, cách sắp xếp bài trí lại theo lối đồ hình chứ không hoàn toàn hình tuyến nên gây ấn tượng, tạo hình khối đẹp, cân đối trong tổ hợp nét chữ. Cách sắp xếp bài trí, quảng cáo, tạo điều kiện cho nghệ thuật thi pháp như chữ Hán và điều này làm cho một số nhà ngôn ngữ học chưa biết hệ thống chữ viết này lầm tưởng rằng đây là hệ thống chữ viết tượng hình. Có thể nói ý tưởng kết hợp truyền thống với đổi mới, sáng tạo, chọn nguyên tắc gần gũi với nguyên tắc sáng tạo chữ viết phương Tây kết hợp với nét Đông Á thật là rõ nét.
Đặc điểm ưu việt và có ý nghĩa văn hoá to lớn là ở động cơ và ý thức sáng tạo của Sejong và nhóm quần thần. Nhà vua quan niệm rằng việc mượn dùng chữ Hán là cần thiết, nhưng có nhiều khó khăn và hạn chế đối với người dân. Vậy cần thiết sáng tạo ra một hệ thống chữ viết dân tộc ghi lại chính xác tiếng nói của nhân dân cho dễ đọc, dễ nhớ. Trung Huấn dân chính âm có đoạn viết: “Khí hậu và đất đai trong bốn phương trời là khác nhau. Những lực lượng vật chất cũng như lời nói cũng không giống nhau. Ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau có cách phát âm riêng, nhưng lại thiếu chữ viết, nên ta mượn chữ Hán để thực hiện cái cần thiết nói trên. Tuy vậy đó là một cố gắng khó khăn như ta phải đun bàn tay xuyên qua một lỗ tròn hẹp vậy. Chính vì lẽ đó mà điều quan trọng là ta phải theo thực tiễn phát âm của thần dân mà làm ra chữ viết riêng dễ học, dễ nhớ”. Lúc bấy giờ có nhiều học giả uyên thâm Hán học không tán thành việc sáng tạo ra Hangul, song Sejong quả quyết rằng “việc khó khăn và có ý nghĩa lớn như vậy mà ta không làm thì ai làm”. Vào dịp công bố chính thức chữ viết Hanguo vua có lời nói đầu giải thích động cơ ông làm việc này và một phụ tá là Chong II Ji viết lời giải thích quá trình sáng tạo hệ thống chữ viết, thuyết phục những người phản đối khuyến dụ nhân dân học theo. Có thể nhận thấy vào thời bấy giờ mà có vị vua nào có ý thức dân tộc, khoa học và nghĩ về dân như vậy thì thật đáng nể trọng và tôn vinh xứng đáng.
Ý nghĩa khoa học độc đáo và văn háo to lớn của Hangul và Huấn dân chính âm còn thể hiện ở triết lí sáng tạo sâu sắc. Hệ thống bảng chữ công bố đầu tiên là 27 con chữ (nay dùng 24), bao gồm 7 kí hiệu ghi nguyên âm, 17 kí hiệu ghi phụ âm, 4 kí hiệu phụ. Con số gần ba chục con chữ này dùng để ghi toàn bộ hệ thống (nguyên âm, phụ âm) lại được tổ hợp chỉ từ một số nét chữ gốc ít hơn, đơn giản hơn, và các nét chữ này lại được liên hội biểu trưng hoá từ cơ sở thực tiễn và triết học phương Đông. Những ký hiệu gốc có một bộ phần mô phỏng tượng trưng cho cơ quan phát âm và phương thức cấu âm, ví như các nét chữ ghi phụ âm. Trong phụ âm lại phân biệt âm đầu và phụ âm cuối trong âm tiết. Các nét chữ phụ âm này lại liên kết tổ hợp để tạo ra kí hiệu phụ âm phức. Sự kết hợp, tổ hợp với nét gốc phụ âm được liên hội, giải thích theo triết lí thái cực và âm dương ngũ hành trong Chu dịch. Ba kí hiệu gốc nguyên âm chỉ là 3 nét chữ đơn giản, tạm gọi là 3 nét chấm (.) ngang (-) sổ (|). Ba nét gốc lại có thể tổ hợp theo một số cách (phái sinh) để tạo thành các chữ nguyên âm phức. Ba nét gốc được liên hội giải thích theo thuyết tam tài, thiện địa nhân hợp nhất. Có thể nhận thấy rằng những hình dung giải thích biểu trưng hoá gắn với nguyên lí triết học và thực tiễn trong Hangul và Huấn dân chính âm thật thâm thúy và sâu sắc. Nhìn nhận toàn bộ sáng tạo có thể rút ra nhiều hệ luận, nhưng theo tôi có một sợi chỉ đỏ quán xuyến mà ta có thể thấy là: Sejong và các tác giả sáng tạo đã làm ra một công cụ hữu hiệu (chữ viết) để ghi lại thứ tài sản vô cùng quí giá của dân tộc (là ngôn ngữ) và dùng nó như một công cụ có hiệu lực vô song để thống nhất phát triển văn hoá, văn minh dân tộc với bản lĩnh, bản sắc riêng, với động cơ và triết lí sáng tạo vô cùng sâu sắc. Giá trị sáng tạo của Hangul và Huấn dân chính âm thật xứng đáng để Tổ chức văn hoá giái dục của LHQ (UNESCO) lập ra giải thưởng vua Sejong (1989) và công nhận là Di sản tư liệu văn tự thế giới (Momory of the world 1997).
Chữ viết Hangul ra đời đã đóng một vai trò to lớn trong phát triển giáo dục và văn hoá dân tộc Hàn. Cũng giống như chữ Nôm ở nước ta một thời rồi chữ Quốc ngữ tiếp theo, chữ Hangul ở xứ Hàn cũng nhiều lúc bị lâm vào hoàn cảnh thăng trầm, coi nhẹ. Do ảnh hưởng của chữ Hán và văn hoá Hán còn mạnh, nên một số triều đại về sau ít dùng, ít đề cao chữ viết dân tộc. Đặc biệt dưới thời kì bị đô hộ bởi thế lực nước ngoài thì nó bị cấm dùng cấm học tập, truyền bá. Tuy nhiên như một giá trị sáng tạo có cội rễ từ bản sắc dân tộc, chữ viết Hangul và quan điểm tiến bộ của Huấn dân chính âm vẫn sống, vẫn phát huy, chống lại được mọi ảnh hưởng, dù là cường quốc văn hoá, văn tự phương Tây. Vai trò to lớn của nó trong giáo dục, văn hoá có nhiều mặt, song nổi bật hơn cả theo tôi là một số điểm lớn sau đây:
Một là, do tính ưu việt dễ học, dễ nhớ của nó nên được nhiều người dân học theo. Chữ viết Hangul còn gọi là chữ viết buổi sáng, bởi có thể học thuộc nó trong một ngày, một buổi. Có người còn gọi nó là chữ viết vĩ đại. Hiệu quả thực tế khi được phổ biến là giúp cho gần 100% dân chúng thoát nạn mù chữ trong một thời gian ngắn.
Hai là, từ khi nó ra đời, với sự nêu gương sáng tác của vua Sejong và các cận thận, các hiền tài thức giả, nó đã mở đầu công cuộc xây dựng và phát triện một nền văn học quốc ngữ. Nền văn học này cũng có nhiều tác phẩm đi vào cổ điển như truyện Xuân Hương và có nhiều tác phẩm của nhiều nhà văn nhà thơ tiêu biểu khác. Không những thế những sáng tác dân gian, phônclo cũng được sưu tập, cố định lại bằng văn bản Hangul, nhiều học giả sáng tạo các lĩnh vực địa lí, lịch sử, pháp luật cũng thể hiện kết quả, tư tưởng của mình bằng chữ Hangul. Có thể nói một nền khoa học nhân văn phong phú, sâu sắc đã được sáng tạo, lưu giữ bằng thứ văn tự này.
Ba là, đặc điểm có vai trò to lớn trong văn hoá giáo dục là ở giá trị tự thân của sáng tạo này (Hangul và Huấn dân chính âm). Nó là biểu hiện của ý thức và sự sáng tạo độc đáo dân tộc. Vì vậy khi nó tồn tại, hành chức luôn luôn là niềm khích lệ, niềm tự hào dân tộc chính đáng, là sức mạnh chống lại sự đồng hoá của ngoại bang. Giá trị tự hào dân tộc, sức mạnh dân tộc gắn kết với chữ Hangul và Huấn dân chính âm đối với nhân dân Korea thật là to lớn.
Tác giả: GS.TS Lê Quang Thiêm
Khoa Đông phương học
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn