Vị trí ưu thế của chữ Quốc ngữ Latinh hóa trong xây dựng hệ thuật ngữ tiếng Việt

Thứ tư - 20/04/2016 00:00
Vị trí ưu thế của chữ Quốc ngữ Latinh hóa trong xây dựng hệ thuật ngữ tiếng Việt
Vị trí ưu thế của chữ Quốc ngữ Latinh hóa trong xây dựng hệ thuật ngữ tiếng Việt

Cũng chính vì thế mà ngày nay cần xem xét đánh giá CQN tiếng Việt không chỉ là phương tiện, công cụ của tiếng Việt mà còn cần được đánh giá như một thành tựu, một thành tố của văn hóa Việt Nam.
Sự khởi đầu của việc du nhập thứ văn tự này, như đã biết, là nhờ những nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Ý, Pháp. Họ là những người đầu tiên dùng thứ chữ viết Latinh hóa hoặc thứ chữ viết của nước họ vốn vay mượn từ tiếng Latinh để ghi âm tiếng Việt tại các vùng miền mà họ đã lưu trú. Và cùng với sự hỗ trợ, cộng tác của nhiều người, nhiều thế hệ người Việt mà hình thành dần hệ CQN tiếng Việt. Dấu mốc lịch sử đáng nhớ và cũng là bằng chứng tạo thành hệ thống - hệ CQN tiếng Việt biểu hiện rõ nét trong các từ (tự) điển. Theo tuần tự thời gian có thể kể đến: Từ điển Việt-Bồ Đào Nha - Latin (Dictionarium Annamitium - Lusitanum et Latium (1651) của Alecxandre de Rhodes. Đáng chú ý là các từ điển tiếp sau, có muộn hơn và cũng có cơ hội tốt hơn, là Tự điển Nam Việt dương hiệp tự vị của A.J.L Taberd (Dictionarium Annamito Latinnum (1838), in lần đầu tại Serampore (Bengale) Ấn Độ. Và đáng tự hào, đáng đánh giá cao là tự điển của soạn giả Việt Nam đầu tiên, có quy mô đồ sộ, đáng nể là Đại nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Tome I: A-L Saigon. Impimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran, 4, 1895 và Tome II: M-X Saigon, Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rue Catinat d'Ormay, 1896. Muộn hơn 2 năm còn có cuốn Từ điển Việt-Pháp (1898) của J.F.M.Génibrel, Saigon. Với CQN - tiếng Việt trong các từ (tự) điển trên đã có nhà ngữ âm học Việt Nam đánh giá là “chữ quốc ngữ  gần đúng như chữ ngày nay” [12,294]. Điều đáng chú ý liên quan đến chữ viết là điểm nhấn của soạn giả từ (tự) điển. Ngoài bìa của Đại nam quấc âm tự vị có ghi rõ "Tham dụng chữ nho, có giải nghĩa, có dẫn chứng, mượn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ" và bên trong tự điển mục Tiểu tự ông tuyên bố "Ta mượn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ, sắp đặt theo thứ lớp cho dễ việc tra tìm. Ta dụng đầu riêng như chữ c chỉ là chữ nho, chữ n chỉ là chữ nôm, chữ c chữ n để chung thì chỉ là chữ nho mà có dùng nôm, cả thảy đều làm ra phân biệt [1, IV]. Quả thực ở chú giải vừa dẫn, soạn giả họ Huình không chỉ dùng chữ cái chung mà cả ghi chú dùng tắt, kí hiệu bằng CQN mà ông tiếp nhận.
Sự thực về mặt văn tự, ngôn ngữ và văn hóa, sự xâm nhập của hệ chữ cái Latinh vào Việt Nam là cả một lịch sử lâu dài, truân chiên với nhiều biến cố, nhiều sự kiện thú vị. Càng có ý nghĩa là qua bao hi sinh gian khó để có thể kết quả là có hậu, là vinh quang như ngày nay. Trong trường kì hàng mấy thế kỉ ấy thì mốc lịch sử chuyển biến mạnh mẻ có ý nghĩa quyết định là vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Do có sự kết hợp nhân tố khách quan là chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất tại xứ Đông dương thuộc Pháp với nhân tố chủ quan là sự thức nhận, sự nhận thức đổi mới thức thời của giới thức giả và những người yêu nước tiến bộ nhiệt thành mà CQN được chấp nhận, quảng bá. Tiếp sau phong trào Minh tân ở miền Nam là phong trào Duy tân ở miền Trung và miền Bắc mà đỉnh cao là phong trào cải cách văn hóa, đầu thế kỉ XX và Đông Kinh nghĩa thục [9,54] mà có người viết: Chữ quốc ngữ là hồn trong nước. Phải đem ra tính trước dân ta. Sách các nước, sách Chi Na. Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường  (Trần Quý Cáp - ĐKNT). Trong văn bản trường ĐKNT, một nhà trường tư thục chỉ tồn tại 9 tháng thì bị đàn áp, đóng cửa có tác phẩm được xem là tuyên ngôn duy tân, minh tân của phong trào là Văn minh tân học sách”. Tác phẩm nêu lên “6 đường” duy tân, canh tân xứ sở, trong đó có đường đầu tiên, thứ nhất là: “Một là dùng văn tự nước nhà”, “hai là hiệu đính sách vở” “ba là sửa đổi phép thi”, “bốn là cổ võ nhân tài”, “năm là chấn hưng công nghệ”, “sáu là mở tòa báo”. Mà trong "một là dùng văn tự nước nhà” có đoạn ghi rõ “Gần đây mục sư người Bồ Đào Nha chế ra chữ quốc ngữ, lấy 26 chữ cái châu Âu phối hợp với 6 âm, 11 vần, đánh vần theo lối hài thanh mà đọc ra tiếng ta, rất là giản dị, nhanh chóng” [4, 123]. 
Thực tế là những dấu mốc, bước ngoặt trong dùng CQN của phong trào Duy tân cùng với các tờ báo ở miền Bắc như Đăng cổ tùng báo là sự nối tiếp phong trào Minh tân ở miền Nam và các tờ báo quốc ngữ ra đời trước đó là Gia định báo (1869), Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh tân văn... Đã có nhà nghiên cứu nhận xét về các tờ báo này rằng: “Để thực hành sứ mệnh giúp đồng bào “văn minh” tiến bộ hơn ngoài việc “mở cuộc Minh tân”, Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn còn góp công xây dựng nền quốc văn mới” [7,36]. Như vậy với phong trào Minh tân, Duy tân và đỉnh cao là Đông Kinh nghĩa thục đã tạo ra một bước, một bước biến chuyển mới trong chấp nhận cổ xúy dùng CQN Latinh hóa. Và tiếp theo là một phong trào báo chí, dịch thuật, sáng tác, xuất bản phẩm với Đông dương tạp chí (1913), Nam phong tạp chí (1917), Hữu Thanh (1922), Thanh niên (1925), Đường Kách mệnh (1927), Văn kiện Đảng (1930) và cả phong trào dịch thuật, trước tác, sáng tác từ sau những năm 10 của thế kỉ 20 đến những năm 30, đến Cách mạng Tháng Tám 1945. Chữ quốc ngữ đã thắng thế. Chữ quốc ngữ đã trở thành công cụ, phương tiện đắc lực của thông tin chính trị-xã hội, của báo chí, của sáng tạo văn học; chữ quốc ngữ đã đi vào trường học, vào khoa học trong đó khởi đầu từ văn bản ĐKNT và dấu mốc lịch sử là cuốn Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn - dấu mốc đánh dấu sự hình thành hệ thuật ngữ khoa học Việt Nam, hệ thuật ngữ tiếng Việt với chữ quốc ngữ Latinh hóa.
Nói rằng chữ quốc ngữ đã thắng thế là nói vai trò, vị trí của CQN trong tính phổ biến, trong trước tác, trong thông tin, giáo dục, khoa học, trong so sánh cạnh tranh với chữ Hán, chữ Nôm, tiếng Pháp thời Pháp thuộc, trước năm 1945 ở Việt Nam. Còn nói về vị trí ưu thế của CQN trong xây dựng hệ thuật ngữ tiếng Việt thì còn có một sự liên hệ, một vị trí còn to lớn hơn là vị thế của CQN - tiếng Việt trong so sánh với tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Hàn (Triều Tiên), nói chung là tiếng các nước đồng văn, các nước vùng đông Á trong tiếp xúc, tiếp nhận thứ chữ viết phương Tây, chữ Latinh ghi âm thời cận hiện đại. Quả thực, ai cũng biết, kết quả của sự tiếp xúc, tiếp nhận hệ văn tự Latinh ghi âm chỉ có Việt Nam là thành công ngoạn mục duy nhất hiện nay. Quả là một kì công, là một thành tựu mới của văn hóa, có ý nghĩa không chỉ của ngôn ngữ học mà cả văn hóa văn minh hiện đại Việt Nam.
Trước hết hãy liên hệ với Nhật Bản là nước tiếp nhận ảnh hưởng phương Tây sớm. Từ thời Minh trị duy tân, theo Vĩnh Sính, người Nhật tiếp nhận thuật ngữ phương Tây qua Hán-Nhật mà không phải phiên chuyển (phiên âm, chuyển chữ). Khi dịch các tác phẩm từ tiếng Pháp, tiếng Anh người Nhật dùng yếu tố Hán đã mượn vào và tạo ra thuật ngữ (Made in Japan) như “Dân ước luận”, tức khế ước xã hội (contrat social) của Jean Jacques Rousseau (Lư Thoa), “Vạn pháp tinh lí” (Esprit des Loi) của Monstesquieu (Mạnh Đức Tư Cưu) và hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm khác. Số thuật ngữ tự tạo này (chất liệu Hán) lên đến trên 3000 TN, sau này tiếng Hán mượn vào rồi ta mượn lại vào tiếng Việt. Đến thời kì sau này người Nhật cũng dùng cách phiên âm. Nhưng theo Hoàng Xuân Hãn “Chữ phiên âm Hán tự còn do-khả, chớ chữ phiên âm chữ Anh và chữ Đức thì cực dài như phiên âm chữ Anh: gyroscopic stabiliser (stabilisateur gyroscopique): Ji-yai-ro-xư-la-bi-rai-zaa”. Hoặc “phiên âm chữ Đức Naphtyla-minsulfosaure (acide naphtylamine sulfonique): na-fu-chi-rư-a-min xư-ru-fuo-ru”v.v. Như vậy hệ thống văn tự Nhật hiện dùng nhiều loại chữ đồng thời. Về thuật ngữ “người Nhật Bản hoàn toàn dùng lối phiên âm trong những khoa học hóa học và các ngành cao cấp về các môn khác” [3, XXV].  
Đối với tiếng Hán của Trung Quốc thì theo Hoàng Xuân Hãn “phiên âm bằng chữ Trung hoa rất khó, trước là vì âm Trung hoa rất ít, sau là vì họ không có chữ la-tinh để nhắc cho họ hình dung chữ gốc phiên âm”. Vì vậy "phàm danh-từ về toán học, vật lí học thì lấy sự thích nghi làm chủ. Dùng đơn âm hay là lưỡng âm làm quy tắc. Về hóa học thì phần vô-cơ, dùng lối đặt chữ mới và thích nghĩa và phiên âm, còn về phần hữu-cơ thì hoàn toàn phiên âm [3, XXVI]. Còn ở phạm vi rộng lớn hơn thì đất nước Trung hoa vào những năm 60, thời ông Chu Ân Lai... nắm quyền trong tay, đã phát động rầm rộ phong trào cải cách văn tự Trung Quốc, dùng tự mẫu Latinh thay chữ tượng hình...Thế mà rồi không thành công [8,19].
Cũng là nước trong 4 nước đồng văn là Triều Tiên (Nam Hàn và Bắc Hàn) tôi gọi chung là dân tộc Hàn (Korea) trước đây văn tự mượn văn tự Hán. Đến thế kỉ thứ tám sau Công nguyên họ tự sáng tạo chữ viết Idu tương tự như chữ Nôm ở Việt Nam. Nhưng đến triều đại vua Sejong (1397-1450) tự đích thân nhà vua chỉ đạo sáng tạo ra hệ thống chữ viết ghi âm hoàn toàn gọi là chữ Hangeul. Đúng vào tháng 12 năm 1443 âm lịch nhà vua cho công bố Hunmin Chongum tức là Huấn dân chính âm với 24 chữ cái gồm 14 nguyên âm và 10 phụ âm. Đây là hệ thống văn tự ghi âm hoàn toàn, rất dễ học, dễ phổ biến nên dân tộc Hàn gọi là chữ viết vĩ đại, một hệ thống chữ viết ghi âm duy nhất thời bấy giờ ở các nước trong khu vực [10, 227-239]. Với 24 chữ cái có sự kết hợp phát âm thành ra có 19 phụ âm và 21 nguyên âm. Vì là chữ viết do nhà vua cho tổng hợp từ nét chữ các con triện nên bề ngoài ta cứ tưởng như là thứ văn tự tượng hình. Kì thực đây là một loại văn tự ghi âm hoàn toàn. Có thể nhận thấy sự tương ứng với chữ cái Latinh cụ thể như sau:

(Xem bài viết toàn văn tại cuốn Phương Đông: Truyền thống và Hiện đại, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2015)

Tác giả: GS. TS. Lê Quang Thiêm 

Khoa Đông phương học

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây