GS.TS Nguyễn Văn Kim - Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng
Trường ĐHKHXH&NV
1. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, lịch sử Việt Nam là lịch sử của các cuộc chiến tranh. Như một định mệnh và số phận của lịch sử, trong tiến trình phát triển lâu dài của mình, dân tộc Việt Nam đã phải thường xuyên đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược, với các đế chế lớn. Trong tác phẩm “Tính thống nhất trong đa dạng của lịch sử Việt Nam”, Giáo sư sử học Phan Huy Lê từng tổng kết: Chưa kể những cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Hùng Vương được phản ánh trong truyền thuyết, chỉ tính từ cuộc kháng chiến chống Tần vào thế kỷ III trước Công nguyên đến năm 1975, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành 15 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong số đó, có 12 cuộc kháng chiến giành thắng lợi và 3 cuộc kháng chiến bị thất bại. Các cuộc kháng chiến không thành công đó đã dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam[1].
Từ tổng kết đó chúng ta thấy, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu Đà thất bại vào năm 179 TCN đưa đến thảm hoạ Bắc thuộc kéo dài 1.000 năm và phải đến năm 938 mới giành được độc lập sau chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo. Cuộc kháng chiến chống Minh năm 1406-1407 của nhà Hồ thất bại đưa đến hai thập niên Minh thuộc (1407-1427), cuộc kháng chiến chống Pháp của nhà Nguyễn (1802-1945) và phong trào Cần Vương (1885-1896) thất bại đã khiến cho dân tộc Việt Nam phải chịu ách nô lệ của thực dân Pháp trong suốt hơn 80 năm (1858-1945). Đó là những trang bi thương, đen tối trong lịch sử Việt Nam!
Điều đáng chú ý là, trong thời kỳ bị đô hộ, dù bị bóc lột, kìm nén, chịu nhiều tổn thất, hy sinh nhưng nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục. Họ đã không ngừng đứng lên đấu tranh bền bỉ, anh dũng để giành lại nền độc lập và tự do. Tính ra, nhân dân Việt Nam đã tiến hành hơn 200 cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Thời gian chống ngoại xâm lên đến 12 thế kỷ, chiếm hơn một nửa thời gian lịch sử. Hầu như không có thế kỷ nào Việt Nam không phải kháng chiến chống xâm lược. Có những thời gian như thế kỷ XIII, trong vòng 30 năm (1258-1288), quân và dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của nhà Trần đã phải ba lần kháng chiến chống lại tham vọng bành trướng, xâm lược của đế chế Mông - Nguyên, một đế chế hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ[2]. Vào thế kỷ XVIII, trong 5 năm (1784-1789) dân tộc Việt Nam cũng đã phải đồng thời kháng chiến chống Thanh ở phía Bắc và chống Xiêm ở phía Nam[3]. Nhìn chung, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đó, các đội quân xâm lược thường có sức mạnh lớn hơn gấp nhiều lần. Nhiều cuộc chiến tranh còn thể hiện rõ mục tiêu thôn tính và huỷ diệt mà biểu hiện cụ thể nhất là âm mưu đồng hoá và phá huỷ các di sản văn hoá. Có thể nói, trong lịch sử các dân tộc châu Á, hiếm có quốc gia nào lại phải gánh chịu những thách thức cam go liên quan đến sự tồn vong của dân tộc như Việt Nam. Để sinh tồn, phát triển và để đủ sức chống lại giặc ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã phải hợp lại thành một khối thống nhất, nêu cao chủ nghĩa yêu nước và ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cùng bản sắc văn hoá của mình[4].
Hiển nhiên, lịch sử Việt Nam không thể chỉ là lịch sử của các cuộc chiến tranh mà còn là lịch sử của những sáng tạo văn hoá; của các mối quan hệ và hoạt động kinh tế; là lịch sử của các giai tầng xã hội với giới tinh hoa và cả những con người bình dị nhất đã góp phần làm nên lịch sử; của thể chế chính trị và luật pháp; của các khuynh hướng và trào lưu tư tưởng; của các dòng phái và đức tin tôn giáo; của các mối bang giao quốc tế, khu vực[5]... Nhưng, chiến tranh đã trở thành nguy cơ thường trực thậm chí có thể coi là một “đặc tính tiêu biểu” của lịch sử Việt Nam. Đặc tính đó đã tác động sâu sắc đến đời sống tâm lý, phương cách ứng xử văn hoá, chính sách phát triển của Việt Nam không chỉ trước và trong thời gian diễn ra các cuộc chiến tranh mà còn để lại những hệ quả lâu dài trong tư duy của một dân tộc thời hậu chiến.
2. Theo quan điểm của cá nhân tôi, trong những bước thăng trầm của lịch sử Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ mà dân tộc Việt Nam phải đương đầu với những thách thức gay gắt và quyết liệt nhất. Gần nửa đầu của thế kỷ này, Việt Nam đã phải tập trung tất cả sức lực để chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp[6]. Việt Nam đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh vệ quốc trong bối cảnh cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi vào hồi kết có nhiều điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, ở châu Á, cuộc chiến tranh Thái Bình Dương đã tác động mạnh đến đời sống chính trị khu vực. Trên thực tế, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ là mốc kết thúc 8 thập kỷ đô hộ của thực dân Pháp mà còn là sự chấm dứt sự hiện diện của quân đội Nhật ở Việt Nam[7]. Nhưng, trong điều kiện quốc tế phức tạp thời bấy giờ, nấp dưới danh nghĩa của các lực lượng đồng minh, quân đội Pháp đã quay trở lại Đông Dương kéo theo là quân đội Anh và lực lượng của Tưởng Giới Thạch. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, cả dân tộc Việt Nam đã đứng dậy chống lại quân xâm lược[8]. Trong sự nghiệp cách mạng thiêng liêng, cao cả đó đã nổi lên vai trò của một lãnh tụ kiệt xuất: Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với những sự kiện quan trọng nhất của lịch sử đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam vì tự do và độc lập, cuộc đấu tranh này là một cống hiến vô giá vào phong trào giải phóng dân tộc và tiến trình cách mạng thế giới, vào việc củng cố các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh chúng ta... Dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, giáng một đòn chí mạng vào hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á. Dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thiết lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã bảo vệ nhà nước đó trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp”[9].
Trong suốt thời kỳ 1946-1954, song song với cuộc đấu tranh vũ trang, chính phủ Hồ Chí Minh còn thực hiện các chính sách ngoại giao dũng cảm, khôn khéo, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và công nhận của quốc tế. Cuối cùng, sau 9 năm chiến đấu liên tục, với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Việt Nam đã khôi phục được nền độc lập trên một nửa đất nước[10].
Căn cứ theo Hiệp định Geneva, vĩ tuyến 17 với sông Bến Hải được quy định là giới tuyến phân chia tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc[11]. Và cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của Mỹ, và các nước chư hầu đã phải kéo dài 21 năm (1954-1975) mới có thể giành được thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, sau đó các cuộc xung đột, chiến tranh biên giới đã diễn ra, gây nên nhiều tổn thất cho dân tộc Việt Nam. Đất nước trải qua những ngày tháng cực kỳ khó khăn trên cả phương diện chính trị kinh tế và ngoại giao, phát triển văn hóa và duy trì sự ổn định xã hội.
Như vậy có thể thấy, cũng như thế kỷ XIII, thế kỷ XX là thế kỷ mà dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều thách thức chính trị khắc nghiệt. Sự tồn vong của dân tộc bị đe doạ nghiêm trọng. Chưa có một thế kỷ nào mà trên lãnh thổ Việt Nam lại xuất hiện đồng thời nhiều đội quân xâm lược nước ngoài như thế. Và cũng chưa có một thế kỷ nào mà đất nước Việt Nam lại phải chịu nhiều hy sinh, tổn thất như vậy! Nhưng, Việt Nam đã đứng vững, đã từng bước phục hồi và phát triển sau các cuộc chiến tranh. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc có sinh lực văn hóa mạnh mẽ. Trên một số phương diện, chiến tranh đã tôi rèn bản lĩnh, hun đúc tinh thần yêu nước, khát vọng hoà bình cho mỗi người dân và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Chiến tranh là thách thức quyết liệt nhất, toàn diện nhất đối với sức sống của một dân tộc. Để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, dân tộc Việt Nam đã phải huy động tất cả nhân tài, vật lực, tập trung mọi nỗ lực cao nhất của đất nước, nhân dân. Người ta thường gọi đó là cuộc “Chiến tranh nhân dân”[12], cuộc chiến tranh thần thánh để bảo vệ những giá trị thiêng liêng nhất. Cuộc chiến tranh đó được tạo nên bởi sức mạnh tổng hợp trong đó chủ nghĩa yêu nước, ý thức bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ truyền thống và cội nguồn văn hoá được đề cao hơn bao giờ hết[13]. Và chính những nhân tố đó đã tạo nên sự thống nhất, tinh thần đoàn kết và sức mạnh to lớn cho dân tộc Việt Nam.
3. Sau khi những thách thức khốc liệt của các cuộc chiến qua đi, đến những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình trong nước và quốc tế có những thay đổi căn bản. Nhận thấy không thể tiếp tục duy trì các chính sách quản lý và tư duy, quan điểm đối ngoại “truyền thống” của một thời Chiến tranh lạnh, Việt Nam đã tiến hành công cuộc Đổi mới từ năm 1986 mà điểm đầu tiên là xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp thực hiện chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Là một quốc gia nông nghiệp, Việt Nam cũng thực hiện nhiều chính sách đổi mới để mở đường cho các thành phần kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục, văn hóa phát triển[14]. Kết quả là, chỉ sau một thời gian ngắn, từ chỗ thiếu lương thực, luôn phải đương đầu với nạn đói, Việt Nam đã có thể giải quyết căn bản vấn đề lương thực và trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Cùng với dầu thô và các nguồn nông phẩm khác, lúa gạo trở thành nguồn hàng xuất khẩu quan trọng, đem lại nguồn ngoại tệ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống cho hơn 80% dân số sống ở nông thôn và góp phần xây dựng một số ngành công nghiệp, kinh doanh mới ở Việt Nam[15].
Nhưng điều quan trọng là, sau khi thực hiện chính sách đổi mới, nhận thức về tình hình và lực lượng thế giới của Việt Nam cũng có những thay đổi quan trọng. Trong khoảng 10 năm (1986-1995), Việt Nam đã có nhiều nỗ lực vượt bậc để giải quyết một cách căn bản những vấn đề tồn tại trong quan hệ quốc tế. Với phương châm “Muốn là bạn với tất cả các nước”[16] Việt Nam đã gửi đi một thông điệp hoà bình, bày tỏ thiện chí muốn xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các dân tộc và viết nên một trang mới trong quan hệ quốc tế. Chính sách đối ngoại hoà bình đó đã làm cho vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Do thực hiện một chính sách đối ngoại ngày càng rộng mở, các quốc gia khu vực và thế giới cũng hiểu thêm, hiểu đúng hơn về Việt Nam. Bước sang thập kỷ 90, cùng với những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề Campuchia, tiếp tục củng cố mối quan hệ hữu nghị đặc biệt với Lào, từng bước cải thiện quan hệ với các quốc gia ASEAN và điều quan trọng là đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và cải thiện quan hệ với Mỹ[17]. Với Trung Quốc, sau nhiều nỗ lực, tháng 3-1991, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt - Trung đã tan băng”. Đến tháng 11-1991, lãnh đạo hai nước tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ. Đối với các quốc gia khu vực Đông Bắc Á, Việt Nam tiếp tục củng cố mối quan hệ đặc biệt với Nhật Bản và năm 1992 chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp nhà nước với Hàn Quốc[18].
Trong hành trình lịch sử từ sau khi thực hiện chính sách Đổi mới, có hai thời điểm có ý nghĩa quan trọng đó là năm 1995 và 2006. Năm 1995 có thể coi là năm diễn ra nhiều bước ngoặt quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Một số nhà bình luận cho rằng, đó là năm thắng lợi lớn của Việt Nam trên phương diện đối ngoại. Vào năm đó, ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức ASEAN. Cũng trong năm này, sau lệnh bãi bỏ chính sách cấm vận đối với Việt Nam đưa ra vào ngày 3-2-1994, ngày 11-7-1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Với các thắng lợi ngoại giao quan trọng đó, một thời kỳ Việt Nam bị cô lập và phong toả trong quan hệ quốc tế đã kết thúc. Trên thực tế, Việt Nam đã có thêm những cơ hội thuận lợi để hội nhập với những phát triển chung của khu vực và thế giới.
Hơn một thập kỷ sau, vào năm 2006, Việt Nam tiếp tục giành được 2 thắng lợi quan trọng nữa trên phương diện ngoại giao đó là việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và tổ chức thành công Hội nghị APEC tại Hà Nội. Trong năm này, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã được nâng lên tầm chiến lược. Quan hệ với Trung Quốc và Mỹ cũng có nhiều bước cải thiện quan trọng. Với Trung Quốc, hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề vướng mắc căn bản trong quan hệ song phương[19]. Một làn sóng đầu tư mới đang đổ vào Việt Nam. Việt Nam trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn của các tập đoàn kinh tế, ngân hàng và tài chính lớn của quốc tế.
Từ việc phác dựng lại bức tranh và diễn trình lịch sử trên đây có thể rút ra một số nhận xét và luận giải:
1. Vị trí của Việt Nam và âm mưu thôn tính của các thế lực quốc tế
Thực ra, để trả lời thấu đáo câu hỏi vị thế chiến lược của Việt Nam qua các thời đại lịch sử không phải là một việc dễ dàng. Nhưng, cùng với tiềm năng và các nguồn tài nguyên nhiệt đới phong phú, các thương cảng thuận lợi cho sự phát triển của quan hệ giao thương và nguồn sức lao động của cư dân thì cũng có thể thấy, trên bản đồ khu vực và thế giới, lãnh thổ Việt Nam có một vị trí quan trọng.
Trải dài theo bán đảo Đông Dương, với đường bờ biển dài 3.260 km, Việt Nam có vị trí tiếp giao giữa Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, giữa khu vực Đông Bắc Á với Đông Nam Á... Việt Nam là điểm đến của nhiều luồng thiên di, là vùng giao thoa của nhiều nền văn hoá khu vực Đông Nam Á cũng như giữa Đông Nam Á với Trung Quốc và Ấn Độ. Như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, trong lịch sử, nếu như những ảnh hưởng của Ấn Độ truyền đến Đông Nam Á bằng con đường tôn giáo và hoà bình thì với các dân tộc trong khu vực, đặc biệt là các quốc gia có chung biên giới đất liền và vị trí thương mại biển quan trọng, đều phải chịu áp lực chính trị, quân sự từ phương Bắc thường xuyên và mạnh mẽ.
Là một nước nhỏ, có ý thức dân tộc sâu sắc lại tồn tại bên cạnh một đế chế lớn, trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia đầu tiên và luôn phải gánh chịu những sức ép mạnh mẽ từ phương Bắc không chỉ khi các triều đại đó cường thịnh mà còn ngay cả thời điểm vị trí trung tâm quyền lực thay đổi và suy bại. Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng xuống phương Nam, Việt Nam là quốc gia giữ vị trí cửa ngõ trên đường tiến xuống Đông Nam Á của các đế chế phương Bắc bởi sự thuận lợi cả giao thông trên đất liền và trên biển. Tương tự như vậy, đến thời cận hiện đại, các thế lực phương Tây, từ vùng biển phía Nam, muốn thâm nhập vào bán đảo Đông Dương và khu vực thị trường rộng lớn miền Nam Trung Quốc, cũng đều coi Việt Nam là mục tiêu quan trọng cần phải chinh phục. Nhìn nhận một cách khách quan, vị trí chiến lược đó là cơ sở hết sức thuận lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu văn hoá trong điều kiện hoà bình nhưng cũng dễ biến Việt Nam thành mục tiêu, địa bàn diễn ra những cuộc đụng độ lịch sử và chiến tranh xâm lược của các thế lực ngoại bang[20].
2. Về cội nguồn, sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, nếu tính từ cuộc xâm lược của nhà Tần thế kỷ III TCN đến năm 1975, trong vòng 22 thế kỷ, Việt Nam đã phải tiến hành 15 cuộc kháng chiến giữ nước và thời gian chống ngoại xâm lên đến 12 thế kỷ[21]. Có thể thấy, là một dân tộc hình thành sớm ở Đông Nam Á, cư dân các nhà nước Văn Lang, Âu Lạc đã sớm có ý thức về nền văn hoá riêng biệt và chủ quyền lãnh thổ của mình. Trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc, cùng với quá trình “Hán hoá” là quá trình tự vệ về văn hóa “giải Hán hoá”. Một số tác giả cho rằng, quá trình “Hán hoá” chỉ diễn ra mạnh đối với một số tầng lớp xã hội bên trên và tập trung ở vùng Đông Bắc. Độ trù mật của hệ thống các mộ Hán và mộ mang phong cách Hán ở khu vực này phần nào minh chứng cho quan điểm đó. Trong ý nghĩa đó, dù thống trị ở Việt Nam trong một thời gian tương đối lâu dài nhưng nhìn chung ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã không thể vươn quá xa ra khỏi phạm vi châu thổ sông Hồng và một số khu vực vốn mang cơ tầng văn hóa bản địa và chịu nhiều ảnh hưởng của văn hoá Đông Nam Á. Nhưng, trải qua thời gian, bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau, nền văn hoá đó đã có những thẩm thấu nhất định vào đời sống văn hoá và một số tầng lớp xã hội. Trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, thật khó có thể hình dung văn hoá Trung Hoa đã không thể thâm nhập qua các luỹ tre làng. Trên thực tế, một số thành tố văn hoá, phong tục, tập quán bên ngoài đã gắn kết và trở thành một bộ phận của văn hoá Việt Nam nhất là với các tầng lớp bên trên của xã hội.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, trong các làng thôn và vùng xa xôi, những yếu tố văn hoá truyền thống Việt cổ, gần gũi và có chung cơ tầng với văn hoá Đông Nam Á, vẫn được duy tồn như một cấu trúc hạt nhân bền vững. Điểm mấu chốt là, dù áp lực của văn hoá Trung Hoa rất mạnh mẽ và ảnh hưởng của nền văn hoá này là liên tục nhưng nó đã không thể làm suy thoái hay phá vỡ cấu trúc truyền thống. Ý thức sâu sắc về nguồn cội, về chủ quyền lãnh thổ và một truyền thống văn hoá riêng chính là sức mạnh nội sinh, nhân tố căn bản để vừa bản địa hoá vừa bảo tồn cấu trúc đó. Cấu trúc đó còn được bảo tồn trong mối quan hệ mật thiết giữa các thành viên làng xã, trong các tập tính, sinh hoạt văn hoá và cảm thức chung, ý thức sức sâu sắc về cộng đồng. Ý thức đó là sợi dây liên kết linh thiêng giữa các thành viên xã hội và có thể trở thành nhân tố kết tụ, động lực để chuyển hoá thành Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần yêu nước đó luôn được nhân lên gấp bội khi lợi ích, chủ quyền dân tộc bị đe doạ.
Hơn thế nữa, nếu nhìn nhận quá trình tiếp giao văn hoá đó theo quan điểm phân tích và cắt lớp văn hoá, có thể thấy những ảnh hưởng của Trung Hoa đến Việt Nam có thể phân lập thành ba loại hay ba vòng cơ bản. Trước hết, đó là những ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa truyền bá đến Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng từ vùng Hoa Nam. Tiếp đó, là những ảnh hưởng từ Hoa Bắc. Và, cuối cùng là những ảnh hưởng từ Hoa Bắc nhưng đã được “Hoa Nam hoá”. Trong ý nghĩa đó, vòng văn hoá thứ nhất vừa rất gần gũi vừa là một bộ phận của văn hoá phương Nam hiểu theo nghĩa rộng. Vòng văn hoá này, khi thâm nhập vào xã hội Việt Nam, nhìn chung đã không diễn ra những phản ứng gay gắt.
Điều quan trọng là, trong khi kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền độc lập về chính trị thì trên phương diện văn hoá, Việt Nam đã không chối từ những di sản văn hoá bên ngoài. Với quan điểm “Vô tốn Trung Quốc, bất dị Trung Quốc” (Không kém Trung Quốc, không khác Trung Quốc) các thế hệ người Việt Nam đã tìm thấy trong kho tàng di sản văn hoá khu vực những năng lực phát triển sáng tạo và sẵn sàng tiếp nhận các di sản đó để không chỉ bổ sung thêm mà còn tăng cường kháng lực cần thiết cho mình. Trên thực tế, trong truyền thống văn hoá Việt Nam từ thiết chế chính trị, luật pháp, chữ viết, giáo dục... đều có nhiều dấu ấn văn hóa phương Bắc. Trong tác phẩm Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam, GS. Hà Văn Tấn từng nhận định rằng: “Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, thường gặp sự mài dũa các vũ khí tư tưởng sẵn có cho phù hợp với yêu cầu Việt Nam, mà một yêu cầu to lớn và cấp thiết nhất là sự gìn giữ sự sống còn của dân tộc”[22].
Cũng cần phải nói thêm là, sức mạnh văn hoá đó còn là sự tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đặc biệt là tư tưởng và quan điểm nhân văn của Phật giáo[23]. Trên cơ sở nền tảng văn hoá bản địa và ý thức sâu sắc về chủ quyền dân tộc, văn hoá Việt Nam đã tiếp nhận nhiều nhân tố và bộ phận của văn minh Trung Hoa, Ấn Độ và từ thế kỷ XVI-XVII là những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây để bổ sung và củng cố giá trị cốt lõi, cấu trúc văn hoá truyền thống của mình[24]. Có thể nói, văn hoá Việt Nam đã tìm thấy năng lực nội sinh và sức sống mạnh mẽ trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và thực sự khởi phát sau 10 thế kỷ chịu sự cương toả của phương Bắc. Điều đó lý giải vì sao, chỉ sau khi giành được độc lập một thời gian ngắn, với niềm tin về sự trường tồn của dân tộc, với vị thế, tầm nhìn và sức sống mới, Đại Việt đã trở thành một cường quốc trong khu vực và đủ sức đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực hùng mạnh từ châu Á cũng như châu Âu.
3. Việt Nam - Quốc gia năng động
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, văn hoá Việt Nam là văn hoá nông nghiệp. Nông nghiệp là đặc trưng và bản sắc của văn hoá Việt Nam - Đông Nam Á. Nhưng, như chúng ta đều biết, Đông Nam Á không phải là một khu vực hay trung tâm văn minh thuần nhất[25]. Mỗi nền văn hoá của các dân tộc trong khu vực đều là sự tiếp nối và tích hợp bởi sự xen cài những truyền thống khác nhau. Trong bối cảnh đó, văn hoá Việt Nam cũng là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Quá trình mở rộng lãnh thổ và khai phá vùng đất phương Nam của người Việt đã dần hợp tụ nên một truyền thống văn hoá đa diện của các vùng miền với ba nền tảng căn bản: Văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Óc Eo - Phù Nam ở Nam Bộ, Việt Nam. Điều kiện tự nhiên nằm ở vị trí bán đảo và là quốc gia có chỉ số duyên hải cao cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên sự phát triển năng động trong truyền thống phát triển của người Việt[26].
Hơn thế nữa, do đặc thù của một dân tộc thờ đa thần giáo, lại tiếp nhận thêm những yếu tố văn hoá của một số nền văn minh lớn của phương Đông nên khi những yếu tố văn hoá, tôn giáo mới thâm nhập vào xã hội Việt Nam, một cách tự nhiên, nền văn hoá bản địa đều có thể tiếp nhận và không diễn ra những xung đột văn hoá lớn, gay gắt. Tính khoan dung về văn hoá và tinh thần biến tư tưởng khoan dung đó thành tư duy hành động trong ứng xử văn hoá là một trong những giá trị chung, quý báu của văn minh phương Đông và văn hoá Việt Nam.
Và người ta cũng đang nói nhiều đến các giá trị châu Á; của tư tưởng Phật giáo, Nho giáo; của quan hệ, tổ chức cộng đồng; của trật tự và tình cảm gắn bó mật thiết giữa các thành viên gia đình... cho sự phát triển của nhân loại trong tương lai.
Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng, trong yếu tố văn hoá Việt Nam truyền thống, người Việt Nam là cư dân trọng tình, thậm chí duy tình. Tôi cho rằng điều đó đúng như chưa đủ. Người Việt cũng giàu tư tuy thực tiễn. Coi trọng các giá trị thực tiễn. Bằng tư duy, lý trí của mình, họ từng tổ chức các lực lượng xã hội để xây dựng nên những hệ thống thuỷ nông trên quy mô lớn. Người Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều trận đánh mang ý nghĩa quyết chiến chiến lược với nghệ thuật quân sự cao và giành được thắng lợi lịch sử. Cũng bằng tư duy thực tiễn, người Việt Nam cũng đã biết từ bỏ những định chế, phương cách, chính sách quản lý kinh tế - xã hội cũ để quyết tâm thực thi chính sách Đổi mới. Bằng tư duy thực tiễn, họ cũng biết thay đổi chính sách đối ngoại “truyền thống”, chuyển từ đơn cực sang đa cực, đa phương hoá quan hệ quốc tế để cùng chia sẻ lợi ích và hòa nhịp chung với những bước tiến của nhân loại. Việt Nam đã hoá giải thành công nhiều mối quan hệ phức tạp và đã chuyển từ thế đối đầu sang đối thoại vì sự phồn vinh, phát triển của khu vực[27]. Trong xu thế đối thoại và hợp tác, Việt Nam đã chủ động khép lại nhiều trang đau thương trong quá khứ để hướng về tương lai và không để một lần nữa bỏ qua những cơ hội lớn vì sự phát triển của dân tộc, vì các mục tiêu thúc đẩy các mối quan hệ, hợp tác khu vực, quốc tế.
Trên thực tế, công cuộc Đổi mới của Việt Nam không phải là sự điều chỉnh hay thay đổi một số chính sách cụ thể mà là một quá trình đổi mới toàn diện có ý nghĩa bước ngoặt nhằm xác định một con đường đi mới cho dân tộc. Con đường đó phù hợp với khát vọng vươn lên của đất nước, với thực tế lịch sử và bối cảnh quốc tế mới. Một mô hình phát triển mới theo hướng hội nhập đang được xác lập ở Việt Nam[28].
Một Việt Nam tự tin, năng động, sáng tạo đang thực sự hội nhập với những diễn tiến mau chóng của văn minh nhân loại trong thời đại mới và hy vọng sẽ có những đóng góp tích cực cho việc củng cố mối quan hệ hợp tác, vì sự phồn vinh của khu vực Đông Á và thế giới trong thế kỷ XXI.
[1] Phan Huy Lê: Tính thống nhất trong đa dạng của lịch sử Việt Nam, trong: Tìm về cội nguồn, Tập 1, Nxb. Thế Giới, H., 1998, tr.495.
[2] Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1970.
[3] Phan Huy Lê - Bùi Đăng Dũng - Phan Đại Doãn - Phạm Thị Tâm - Trần Bá Chí: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội Nhân dân, H., 2004.
[4] Phan Huy Lê: Lịch sử và văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận, Nxb. Thế giới, H., 2012; Vũ Minh Giang: Lịch sử Việt Nam truyền trhống và hiện đại, Nxb. Giáo dục, H., 2009.
[5] Nguyễn Văn Kim - Phạm Hồng Tung: Lịch sử và văn hóa Việt Nam - Tiếp cận đa chiều, liên ngành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2017.
[6] Đinh Xuân Lâm: Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục, H., 2015; Nguyễn Mạnh Dũng: Quá trình xâm nhập của Pháp vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX – Nguyên nhân và hệ quả, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2016.
[7] Trong thời kỳ chiếm đóng ở Việt Nam (1940-1945), cùng với những hành động về quân sự, chính sách kinh tế của lực lượng chiếm đóng quân đội Nhật Bản còn được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thảm hoạ khiến hơn 2 triệu người chết đói. Xem Văn Tạo - Furuta Motoo: Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, Nxb. Tri thức, H., 2011.
[8] Phạm Hồng Tung: Lịch sử cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2013; Nhiều tác giả: Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2010.
[9] Tuyên bố của Hội nghị quốc tế “Việt Nam và thế giới” kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong: Việt Nam và thế giới, Nxb. Sự thật, H., 1981, tr.202-212.
[10] J.C. Rômê: 1954 - Một năm thay đổi cục diện; trong Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN: Điện Biên Phủ từ góc nhìn của các nhà khoa học Việt - Pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2005, tr. 20-26.
[11] Trong điều kiện quốc tế có nhiều phức tạp lúc bấy giờ, Việt Nam chưa thể hoàn toàn chủ động trong việc đưa ra những quyết định về ngoại giao. Trên thực tế, bản hiệp định là sự dàn xếp lợi ích nhằm đạt đến sự cân bằng quyền lực giữa các nước lớn. Trong lịch sử Việt Nam, với việc ký kết hiệp định Geneve, lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt lần thứ hai (21 năm), sau cuộc chia cắt lần thứ nhất diễn ra trong thời kỳ phân tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 114 năm (1672-1786). Xem Mitchell K. Hall: Because of their Faith - Calcav and Religious Opposition to the Vietnam War, Columbia University Press, 1990; Larry Berman: No Peace, No Honor - Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam, Library of Congress Cataloging-in-Publication Data, America, 2002; Pierre Asselin: A Bitter Peace – Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement, The University of North Carolina Press, 2002.
[12] Nội dung và tinh thần cơ bản của khái niệm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đầu tiên trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tháng 12-1946. Về sau, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiếp tục phát triển tư tưởng và hoàn chỉnh về lý luận khái niệm này.
[13] Tinh thần dân tộc và ý thức sâu sắc về nền độc lập và thống nhất dân tộc, theo các nhà sử học Việt Nam, được thể hiện rất tiêu biểu trong tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo (1226-1300), Đại cáo bình Ngô của Danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi (1380-1442) và Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) kế thừa xuất sắc một số tư tưởng thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
[14] Đặng Phong: “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb. Tri thức, H., 2009; Đặng Phong: Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989, Nxb. Tri thức, H., 2009; Vũ Cao Đàm: Nghịch lý và lối thoát - Bàn về triết lý phát triển khoa học và giáo dục Việt Nam, Nxb. Thế giới, H., 2014.
[15] Sản lượng lương thực của Việt Nam đã không ngừng tăng lên từ 17,5 triệu tấn năm 1987 lên 34,3 triệu tấn năm 1999, tức tăng gấp đôi sau 13 năm. Từ chỗ trung bình mỗi năm phải nhập khẩu 1 triệu tấn lương thực đến năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo và đến năm 1999 đã tăng lên đến 4,5 triệu tấn, đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, sau Thái Lan. Xem Phạm Xuân Nam: Đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam (1986-2000) - Một cái nhìn tổng quan; trong: Việt Nam trong thế kỷ XX, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2001, tr. 237.
[16] Phương châm đối ngoại quan trọng này được đưa ra tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, tháng 6 năm 1991. Toàn văn tuyên bố như sau: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
[17] Cuối năm 1989, Việt Nam đã rút hết quân đội và chuyên gia ra khỏi Campuchia. Trước xu thế hoà dịu chung, Mỹ cũng điều chỉnh chính sách đối với Đông Dương, chấm dứt ủng hộ Chính phủ liên hiệp ba phái Campuchia và bắt đầu đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt. Xem Nguyễn Đình Bin (Cb.): Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2005, tr. 334.
[18] Quan hệ hữu nghị Việt - Nhật được chính thức thiết lập ngày 21-9-1973, tức là chỉ 8 tháng sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam được ký kết (27-1-1973). Xem Shiraishi Masaya: Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam 1951-1987, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1994, tr. 89-95. Tuy quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc được thiết lập tương đối muộn nhưng theo các nhà quan sát, tốc độ phát triển của mối quan hệ này hết sức nhanh chóng và có nhiều triển vọng trong tương lai bởi sự tương đồng văn hoá giữa hai nước và môi trường đầu tư thuận lợi, giàu tiềm năng của Việt Nam.
[19] Cùng với việc ký Hiệp định về biên giới trên đất liền ngày 30-12-1999, ngày 25-12-2000 Chính phủ hai nước Việt Nam - Trung Quốc cũng đã ký Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá. Như vậy, theo đánh giá, Việt Nam đã giải quyết dứt điểm được hai trong ba vấn đề về biên giới lãnh thổ vẫn tồn tại với Trung Quốc bao gồm: Biên giới đất liền, Phân định vịnh Bắc Bộ và vấn đề Biển Đông.
[20] Robert D.Kaplan: Sự minh định của địa lý (Đào Đình Bắc dịch), Nxb. Hội Nhà văn, H., 2017, tr.72-74.
[21] Phan Huy Lê: Quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam; trong: Tìm về cội nguồn, Nxb. Thế giới, H., 1998, tr.465.
[22] Hà Văn Tấn: Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam; trong: Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội Nhà văn, H., 2005, tr.50.
[23] Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr.121-125.
[24] Phan Huy Lê: Tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây trong quá trình cận đại hóa ở Việt Nam, trong: Lịch sử và văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận, Nxb. Thế giới, H., 2012, tr.1004-1016; Trịnh Văn Thảo: Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954), Nxb. Thế giới, 2013; Nguyễn Văn Khánh (Cb.): Nguồn lực trí tuệ Việt Nam: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2012.
[25] Tadao Umesao: An Ecological View of History - Japanese Civilization in the World Context, Trans Pacific Press, Melbourne, 2003; Arnold Toynbee: A Study of History - A New Edition Revised and Abridged, 1972.
[26] Có thể xem Keith Weller Taylor: The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983, p.7 và những phân tích sâu sắc của GS. Trần Quốc Vượng về tính ứng biến của yếu tố Nước ví như công trình: Một nét bản sắc của văn hoá Việt Nam: Khả năng ứng biến; trong: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Dân tộc, H., 2000, tr.41-49.
[27] Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN: Việt Nam trong tiến trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập, Nxb. ĐHQG HN, H., 2005; Vũ Dương Ninh (Cb.): Việt Nam trong thế giới đang đổi thay, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2017; Nguyễn Quốc Hùng: Với thế kỷ XX, Nxb. Thế giới, H., 2016.
[28] Phùng Hữu Phú - Lê Hữu Nghĩa - Vũ Văn Hiền - Nguyễn Viết Thông (Đồng Cb.): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn vè chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2016.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn